Là một gương mặt thơ nữ có nhiều sáng tác ấn tượng về đề tài thế sự, Minh Đan còn xác lập cho mình một giọng thơ trữ tình cá tính, khó lẫn giữa vườn xuân đa sắc đa hương…
1.Nhiều thi ảnh độc đáo hiện lên trong thơ Minh Đan rất thật và đậm chất ái tình khi đối diện với tình yêu và cuộc sống.
Với "Thắp Mặt Trời Xuân", thơ Minh Đan lạ, đặc sắc và tựa bài cũng lạ. Nhịp đập mùa xuân chuyển mình từ “đường cong” rồi lại “đầm đìa” trong trạng thái “rêu ngủ”. “Đường cong cong đầm đìa rêu ngủ
Phố lạnh Xé toạc ngày rủi may...”.
Cứ ngỡ “phố lạnh” sẽ nhấn chìm mọi rung cảm của thời gian, không gian. Nhưng không, nàng kiêu hãnh “xé toạc rủi may” để thỏa mãn tình yêu chính mình và hưởng thụ sự giao thoa của đất trời; để rồi hiên ngang đi giữa tiết xuân, thềm hoa của nàng tự tin trổ lộc:
“Hoa mở lối
Sương sương non ngủ quên giấc mơ
Xuân
Những lá cuộn vào nhau
Không thoả hiệp với mùa đông”
Sự mạnh mẽ khiến chúng ta nhận ra cái động cơ mà hoa phải “mở lối”, xuân đã dậy thì và xuân vào kết đôi khiêu vũ bằng hành động “cuộn vào nhau”. Ở đây, chúng ta thấy rằng sự khẳng định em là mùa xuân chứ chẳng phải là đông lạnh lùng tê tái, co ro như thuyền độc mộc tại một dòng sông băng.
Nhưng sang đoạn cuối, tác giả, sự trỗi dậy của một vì sao ái tình, bản thể, hãnh diện trưng ra “con gái – mỹ nữ” của nàng:
“Đường đường cong
Em - con gái
Thắp mặt trời
Không hư ảo
Không chông chênh.”
Mạch xuân thì tiếp tục được Minh Đan phơi tỏ trong bài thơ "Không Thể" mô tả thiên đường - nơi quí đàn ông thực sự mê đắm. Và chính hai báu vật nam - nữ này sinh ra nhân loại, bảo tồn vũ trụ chúng ta.
“Mặt trời đóng lên đỉnh đầu những hạt nắng hạt mưa vô thường vô ngã
Toà nhà trọc tóc giáng xuống phố xinh những bóng chim khi tỏ khi mờ
Mùa xuân in dấu chấm đỏ lên ngực em thẫn thờ
Hành khất lời yêu cháy bỏng
Anh đến...
Tia chớp đầu hàng hạ giọng
Sương sớm chưa kịp ngước nhìn
Cây cỏ còn nguyên nét thư sinh
Những môi anh đào bẽn lẽn
Chiếc cúc áo len lén
Bờ đá say sưa con nước rần rần
Chảy đi những lời nguyền từng làm ai bật khóc một lần
Cho ngày gọi tên hạnh phúc
Em đàn bà từ anh – thường trực
Những khát khao không thể đặt vòng.”
Từ và tứ như bức tranh thuỷ mặc mà hoạ sĩ đã vẽ nàng tiên ôm hoa đào với chiếc áo dài hồng tha thướt, như hai dòng sông bung lụa. Ô hay, lúc này “anh đến” thì sự kỳ vĩ của “tia chớp”, “sương sớm”, “cây cỏ”… tất cả bỗng yếu mềm, ngẩn ngơ, hạ mình, vì em thực sự rất đẹp, rất đàn bà thục nữ, em có quyền làm điều đó! Bởi thế, “chiếc cúc” của em và anh cũng dần bật ra đắm chìm trong suối tình ca vẫy gọi róc rách, nước là rượu chảy không thôi. Anh đến như muôn vật phải chịu khuất phục trước dáng hình em tuyệt mỹ để rồi tiếng đàn ái ân cứ dợn mênh mông như tứ hải trập trùng.
Và rồi men mùa xuân tiếp diễn trong lời rủ rê ngọt lịm:
“Về đi anh
Đánh thức que diêm đỏ lửa trong em
Đỏng đảnh nằm ngoài mép cửa
Về đi anh
Nụ xuân tràn nhựa
Én rợp trời Nam khâu múi nhớ
Về đi anh
Mùi… ủ… chua… mời!”
(Về Đi Anh).
Mùa ái ân vẫy gọi. Em sẽ dịu dàng, sẵn sàng, đỏng đảnh, nhõng nhẽo như một con mèo ngoan quanh co ngoài mép cửa, và mùa xuân tràn nhựa từ đây. Anh về, anh về, anh về là chim én, là nụ xuân, là khâu múi nhớ, là men ủ chua của vị đàn bà mời gọi hiến dâng.
2. Nhưng sang giọng thơ cũng mùa xuân trong hy vọng sống còn của nhân loại với bài thơ "Thức Tỉnh", Minh Đan dường như nhận ra sự thật trần trụi của lòng người, tình đời khi thế giới trải qua cơn đại dịch Covid-19 gây ra bao đau thương, mất mát, chia lìa.
Tác giả thức tỉnh bản thân, nhưng lại cảm thông với thế giới con người. Chị lo lắng, chiến đấu, giục giã lương tri để yêu thương tha nhân nhiều hơn.
Minh Đan viết:
“Thế giới không ngừng lo lắng về Cô vy
Loài người không ngừng chiến đấu vì Cô vy
Tôi không ngừng thức tỉnh chính mình”
Chị cũng nhận ra một chân lý:
“Trong sáng quá!
Không đuổi kịp lưu manh đang chế ngự
Đành ngụp lặn vào... thơ
An nhiên làm một kẻ khờ”
Là một cách buông bỏ những điều xấu xa, bạc ác để tìm chính mình:
“Ước mình là loài chim chóc
Thư thả chuyền cành, tắm nắng lượn vui
Tự do hát lời tỏ tình bên cánh hoa xinh
Không gợn nỗi niềm nhân thế
Không lo dịch giã, cách ly
Không buồn ai còn ai mất
Cứ sải cánh bay bay bay
Ước mình là viên đá cuội
Thanh thản ngồi tĩnh lặng ngắm trời cao
Mở lòng vào cõi hư vô
Nghe thông reo, suối chảy dỗ yên ánh sáng
Thỏa một đời đá thức
Lại ước thời gian ngừng trôi
Xuân không mang lộc non đếm tuổi
Nếp nhăn chẳng lấy cớ sinh sôi
Tóc chẳng buồn điểm thêm sợi bạc”
Chị rất tuyệt vời khi là “chim”, cứ sải cánh, quên đau thương, dịch lệ, chết chóc. Ở chỗ khác, chị là “viên đá cuội” để thông cảm với kiếp người, thật sự thư thả, an nhàn, tĩnh lặng và thoả mãn cái kiếp làm “đá thức”, tức là làm một người thanh bạch. Nhưng cái chị không thể ước được dù có ước là “thời gian”, vì nó không bao giờ trở lại, phải nhớ rằng nó như là vó ngựa của hằng nghìn tỉ con ngựa chạy qua!
Và điều chị chiêm nghiệm sâu sắc lay tỉnh sự thiện lương trong mỗi con người:
“Điều ước bao giờ hóa thật
Khi lòng người đầy túi tham?”
Về nghệ thuật, thơ của Minh Đan dùng từ sắc bén, có bước chuyển động mạnh mẽ, thách thức và cởi mở.
Thơ hay ở chỗ từ-tứ-tư. Và cái đẹp trong thơ Minh Đan như bức tranh mùa xuân nhiều màu sắc và cuốn hút.
Mùa xuân sẽ ở với những ai có tấm lòng ấm áp, tình yêu sẽ quấn quýt bên ai có sức hút của sự yêu thương. Chính điều đó đã khiến cho những vần thơ Minh Đan quyến rũ và đầy nhân bản.
HÀN QUỐC VŨ