Đọc thơ Minh Đan, điều dễ nhận thấy là vấn đề thân phận con người, tình yêu, nỗi cô đơn và những tổn thương mất mát… được chị khai thác trên nhiều khía cạnh, phương diện. Tất cả được phơi trải đến tận cùng mọi ngõ ngách của trái tim bằng những ngôn ngữ chân thành nhất. Bởi với nhà thơ Minh Đan, chỉ có sự chân thành và tình yêu thương mới là liều thuốc tốt nhất để con người ta vững tin mà sống mà yêu cho trọn kiếp người. Những vần thơ của chị vì thế bao giờ cũng giăng mắc vào lòng bạn đọc sự đồng cảm, sẻ chia sâu sắc.
Trong hành trình sáng tạo thơ của mình, dường như giọng chủ đạo và xuyên suốt vẫn là những giọt buồn xốn xang. Con người, cuộc đời, thế sự được nhìn nhận trong một mắt xích, liên đới, liên thông và có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Có thể được nhìn thấy, được hiện hữu trong đời sống thực nhưng cũng có thể ẩn tàng trong những điều mơ ước, trong thẳm sâu thế giới tinh thần hư ảo, xa xôi nào đó.
Viết cho những cô gái ở quê lên thành phố bằng lời thơ nhẹ nhàng nhưng đọc và ngẫm có gì đó ứ nghẹn, xót xa. Phải chăng “em” chỉ là một thứ trò chơi, một món hàng, một niềm vui qua đường để lấp đầy khoảng trống cho anh - những “đại gia” phố thị: anh thản nhiên đi qua đời em/ mẩu tàn thuốc rơi trên vạt áo/ vẫn giọng điệu của gã chí phèo tếu táo/ “cô chẳng phải là cần sa”// em chẳng là cần sa/ đâu đủ sức cho tim anh mê đắm/ em chỉ như bông hoa tỏa chút hương lẳng lặng/ ven đường ai nhặt, cầm chơi// anh thản nhiên nói với cuộc đời/ cô ấy đấy, người tôi từng say đấy/ nhưng là một loài hoa dại/ vô tình vướng vít qua tay// anh thản nhiên đùa cợt thơ ngây/ như vừa hôm qua nhặt yêu đâu đó/ có lẽ nào anh không mắc cỡ (?)/ gió hãy còn thẹn môi… (đời trinh nữ).
Nỗi buồn hiện hữu và thường trực trên từng con chữ và trang thơ của chị. Ngay trong bữa cơm gia đình, lẽ ra phải là lúc vui vẻ, ấm áp nhất thì bữa cơm trong thơ chị lại mang nỗi ấm ức, ngột ngạt. Không khí bữa cơm trở nên nặng nề, bữa cơm trở thành sự họp mặt bất đắc dĩ, thức ăn là nhân chứng cho những đau đớn và sự miễn cưỡng kia: nỗi buồn/ pha loãng dưới lớp gạo thơm/ lửa quét sạch nụ cười/ mùi khét làm nhân chứng// nỗi buồn/ nêm cơn thịnh nộ vào canh/ dưới đáy nồi khỏa lấp những đắng, cay/ thịt thà điểm tô cho điều thầm kín// nỗi buồn/ xô đẩy lên miệng chén (bữa cơm).
Sự thất bại, phũ phàng trong tình yêu là vết xước trong tâm hồn không thể nào lành, thậm chí đôi khi lại nhói đau dù không muốn và không bao giờ muốn nghĩ về những điều không hay đã xảy ra đó: cuộc tình chóng vánh/ người đàn ông mang mặt nạ/ mây mưa mông lung/ nỗi nhớ neo người lỡ bước// hư hư thực thực/ hạt đậu lạc trong mớ thóc/ chim non mù điếc// mặt trời thức/ sau lưng/ bộ cung tên của quỷ (tình dối).
Nhân vật trữ tình "em" trong thơ Minh Đan luôn có sự hoang mang, bất an trong tình yêu. Bởi em tự đặt câu hỏi chất vấn về chính mình, luôn dằn vặt, trăn trở, hoài nghi về anh. Tình yêu giữa em và anh là thứ tình yêu không có kết quả tốt đẹp bởi sự cuồng tín của em, bởi những lời hứa có cánh của anh. Và điều chắc chắn em sẽ là người thua thiệt, mọi thất bại, đổ vỡ em phải nhận lấy về mình: đừng cố đóng dấu đời em/ bằng mộc đêm mang danh tôi – chúa/ đừng cố nhốt em nơi lồng son/ bằng sợi dây thừng của tình yêu cuồng tín// những lời hứa biết bay/ không thể mơn trớn đời nhau phía đầm lầy/ ngờ nghệch đôi bờ vượt cạn/ qua dốc tình có là ánh sáng?/ van tim mở cửa thiên đường// em sợ phù phiếm tẩm hương hoa hồng/ mùi ma quái làm u mê tim óc/ em sợ tiếng thét gào của những thán từ ứa nước/ đang cố lăn về vệt khô nứt nẻ nhọc nhằn/ em dần sợ chính mình/ cô đơn đóng khung chật cứng/ chây ì bám vào đất sống/ xây những ngôi chùa im chuông// tại sao chọn em/ không phải người đàn bà trong tiểu thuyết/ người đã nổi điên trong giấc mơ anh – khủng khiếp/ tại sao lại là anh?/ không phải gã khờ bước ra từ cổ tích/ người đã đâm thủng tim non em – nhiều nhát/ người đã bất chấp thần linh xử tội tử hình (đêm vỡ).
Để rồi sau bao nhiêu đêm vỡ, sau bao nhiêu thất bại ê chề trong con đường tình ái, em đã trở nên trơ lỳ, gan góc, bạo liệt và sẵn sàng đánh đổi, thế chấp. Em tự ý thức và ý thức một cách rốt ráo: “em đàn bà… không cần tình nhân”. Điệp khúc "em đàn bà không cần tình nhân" được lặp lại 3 lần ở cuối bài như một tuyên ngôn đanh thép cho chính mình khi khước từ tất cả: khi cảm xúc nhượng bộ/ lý trí vứt mạnh tình nhân vào sọt rác/ chẳng cần tìm lý do cho điều phải mất// bao lần khiêu vũ trong mưa/ tự nâng bước mình qua ngày giông gió/ thăng hoa với cô đơn// không cần thuốc tê vỗ về vết đau/ như cỏ cây vươn mình trên vùng phèn mặn/ mặc tiếng chim mải miết săn mồi/ thanh thản buông// em đàn bà không cần tình nhân/ em đàn bà không cần tình nhân/ em đàn bà không cần tình nhân.
Thơ Minh Đan đem đến cho người đọc sự cảm thông, chia sẻ với nỗi niềm của chị và sự ngẫm ngợi, xót xa. Xuyên suốt trong hành trình thơ Minh Đan, người đọc nhận ra nhà thơ dành phần nhiều những vần thơ của mình để viết về người phụ nữ, nói về người phụ nữ bằng những lời gan ruột, thống thiết nhất. "Lấy chồng xứ lạ" là bài thơ gợi ra nhiều nỗi bất an cho những cô gái lấy chồng xa. Sự đổi thay chóng vánh, rời xa ruộng đồng để về phố mới với tương lai ánh mắt không màu. Bởi ẩn đằng sau sự bình yên, đổi đời là cả những chao đảo, trắc trở, bão tố ở phía trước. Lời thơ đã phần nào thể hiện nỗi lo lắng, dự cảm về những sóng gió sẽ ập đến trong tương lai của những cô gái vốn dĩ chân quê, hiền lành này. Giấc mơ đổi đời, rồi đây sẽ thế nào, sự may mắn có đến được với những cô gái này không? Câu hỏi đầy nhức nhối đã hàm chứa ngay câu trả lời: những bông lúa chúm chím/ những khuôn mặt ca dao/ những giọng nói mía lau/ lấp ló đường cong thị thành sau ngày xem mắt// nụ cười bình yên sắp đặt/ áo bà ba xa lạ với ruộng đồng/ chiếc khăn rằn tách rời đôi vai thon/ bàn chân em đỏ vàng óng ánh/ suối tóc hoe hoe màu nắng// sông quê lặng lẽ/ nhạn về phố mới/ tương lai trong ánh mắt không màu?
Thủ pháp ẩn dụ và nhân hóa được nhà thơ Minh Đan sử dụng khá nhiều làm cho thơ chị mang nhiều tầng ý nghĩa, gợi những suy tưởng bất ngờ và giàu giá trị biểu cảm. Bên cạnh những vần thơ viết về tình yêu, về cuộc sống thế sự nhân sinh, Minh Đan cũng có những vần thơ bày tỏ thái độ, nỗi niềm của mình trước thời cuộc, trước những điều “kỳ lạ”, đảo điên.
"Điều kỳ lạ…" là một bài thơ thấm đẫm những nỗi suy tư, trăn trở của chị trước bao cái lạ xảy ra trong đời sống: ánh nắng/ chỉ có thể thấy được khi lạc lối/ bầu trời là chiếc phao cứu sinh cho những cánh chim mù/ đức tin trong tôi cứ mãi ngục tù/ đêm đêm dọa nạt trái tim yếu bóng// quanh tôi cuộc người bí ẩn/ cô gái đôi mươi bỗng hóa bà già/ chàng trai ba lăm bỡ ngỡ tuổi mười ba/ lão ngô đồng “yêu” em lên sáu// thiên nhiên đầy lạo xạo/ quả bí chửa hoang như thai phụ sắp lâm bồn/ đâu đó dòng sông chảy máu dập dồn/ ngọn sóng thần nổi cơn thác loạn// bè bạn bên ta nuôi tâm thủ đoạn/ chấm đỏ góc bản đồ lên hộ chiếu/ đường lưỡi bò ngang nhiên quấy nhiễu/ ta lặng im hay giả vờ thua?// những con chữ thay thế giấc mơ/ những con chữ nằm nghe nhịp sống/ những con chữ không lẩn trốn/ những con chữ biết trở mình giữa chốn lao xao.
Trước cuộc sống đầy lo toan, bất trắc, nhà thơ Minh Đan luôn có những trăn trở của riêng mình trước bộn bề những giá trị bị đảo lộn. Ở đó còn là sự cảm thông, chia sẻ với những thân phận, mảnh đời kém may mắn.
Viết cho người mẹ đơn thân bằng lời tâm sự của một người đàn bà đã đi qua sự chà xát của niềm đau và nỗi buồn chất ngất: bao nhiêu yêu thương khâu kín một hình hài (?)/ em rửa cơn buồn/ bằng thứ mùi đàn bà phá giá/ sợi tóc buộc câu yêu/ lá vàng môi buông thả/ nước mắt ứa nhựa thân xanh// ngồi dệt giấc mơ bằng sợi tầm gai/ khỏa thân cởi mùa/ gọi nhau qua vách gió/ ngỡ lòng mình quý nhân/ trong vòng tay người thương// ngờ đâu…/ lá vàng rơi lòng em những cánh chán chường/ mùa thu đi qua/ tiếng đàn bầu xéo xắt/ đếm tháng ngày méo tròn dằng dặc (mẹ đơn thân).
Nhà thơ Minh Đan đã phát huy cao độ vốn sống, vốn văn hóa, sự hiểu biết của mình để bình giá cuộc sống. Nhìn ở khía cạnh, bình diện nào thì thơ Minh Đan vẫn là tiếng thơ với nhiều tâm sự, nỗi niềm trước cuộc sống và tình yêu: bên bếp lửa hồng/ khoai mì, khoai lang hiên ngang mặc cả/ gánh hàng rong được mùa nâng giá/ chen chân lên mâm cỗ người giàu// cuộc nhục vinh như thể chuyến tàu/ ai cũng mơ sân ga quý tộc/ phía bờ kia khoe khoang quyền lực/ nơi bờ này thường trực mưu toan// số phận lỏng đinh/ chìa khóa lương tâm tráo trở/ những linh hồn neo thân tạm bợ/ chạy rong khắp ngõ diễn trò// mê lộ chật cứng thằng hề/ múa may những màn kịch nhạt hoét// thôi, nép bên đường nhỏ hẹp/ nhẹ lòng đi giữa hừng đông (mê lộ).
Sự quan sát tinh tế, liên tưởng phong phú, suy tưởng sâu sắc đã mở ra bước chuyển về thi pháp đưa thơ đến chất giọng triết lý. Đó là tiếng vọng của một tâm hồn cô đơn, nỗi đau thân phận và nỗi buồn nhân thế nhưng thơ Minh Đan vẫn giữ được chất trữ tình trong trẻo và giàu tính nhân bản: trước mặt kẻ khiêm nhường giả tạo/ ta ngu ngơ như chẳng biết gì/ manh áo giáp ngù ngờ chắn đạn/ thủng thẳng chờ động tĩnh người đi// làm công bộc đâu như cày ruộng/ cấy cho xong hạt thóc trên đồng/ người nhà nông chăm tưới nước, phân/ mới có được gạo thơm cơm ngọt// sống quanh mình bao người ton hót/ lời nịnh thần nghe dễ lọt tai/ bản lĩnh nào soi đáy lòng tham?/ vơ vét sạch kho tàng có thể (nằm mơ thấy bao chửng khóc).
Lời thơ rút ra từ những chiêm nghiệm của bản thân và đó chính là tiếng lòng của một người phụ nữ khi đã nếm trải bao vị đắng chát của cuộc người. Nhà thơ đã cố bình tâm để “lạc quan khâu lại những bồi hồi qua”: buồn ơi!/ buồn thế đủ rồi/ chén tình đâu thể nhắp hoài đến mai/ rã rời đêm/ mệt mỏi ngày/ bỏ đi cũng dở/ nhặt chai hết lòng// ước gì mưa rớt đầy sông/ buồn trôi theo nước/ tôi bồng vui đi/ tặng ai kia đóa nhu mì/ nụ cười nhú nắng/ bờ mi khép hờ// ước gì gió hứng túi mơ/ thả vào giấc đẹp/ nương nhờ ít hôm/ thì thầm với cái siết ôm/ bàn tay đủ ấm/ từng cơn dịu cùng// ước gì mây gối mông lung/ chở tôi bay khắp điệp trùng dạo chơi// dậy đi!/ nắng nhả tơ trời/ lạc quan khâu lại những bồi hồi qua.
Thơ Minh Đan càng về sau những triết lý, chiêm cảm càng thể hiện rõ nét. Tuy vậy, thơ chị vẫn giữ được chất mượt mà, sâu lắng của một hồn thơ thấm đẫm cảm xúc: giữa cuộc người/ hai ô đen – trắng/ khuyết tật với ô tròn là đen, ô vuông là trắng/ ranh giới thắng – thua nằm lẫn trong cờ// điểm đen trong ô trắng rất mơ hồ/ điểm trắng trong ô đen mập mờ số phận/ khoảng cách chênh vênh giữa tần sóng ngắn/ may rủi có chung đường?// lời giải nào cho quán quân?/ những cái vỗ ngực xưng tên chỉ là trò bịp/ ô đen khuyết vầng trăng mười sáu/ ngày rằm vẫn lung linh/ ô trắng không khuyết mà khuyết cả tên mình/ bọc dưới lớp áo thêu mây dệt gió/ sự thật thôi không bỏ ngỏ/ đừng tự hoan ca phù phiếm nhọc nhằn// sống vui như cánh cò thoát tục dưới trăng… (bàn cờ).
Điều làm nên nét riêng và có lẽ cũng là thế mạnh của thơ Minh Đan đó là nỗi buồn đặc quánh nhưng được chị chuyển tải một cách tự nhiên, hồn hậu. Buồn nhưng rất bình thản, buồn nhưng giàu đức tin và khát vọng vươn đến để xóa tan những khổ đau đang hiện hữu. Vì thế, đôi khi chị có khao khát, ước muốn sống hết mình, cháy hết mình có thể. Bài thơ "đôi khi" là minh chứng rõ nét điều này. Với hàng loạt những động từ mạnh đã cho thấy ước muốn và sự bung phá mãnh liệt đến nhường nào: đôi khi muốn/ cháy rất nhiều/ bỗng dưng tắt/ nghẹn những kiêu hãnh/ rời// đôi khi muốn/ bật lửa trời/ hong khô sợi nhớ/ khát/ vời vợi xa/ đôi khi muốn/ đốt thật thà/ gom tro ủ/ những phôi pha/ vắn dài// đôi khi muốn/ cưỡi lưng mây/ phi thân đọt nắng/ vỡ ngày/ vừa nhen.
Minh Đan vốn dĩ là một thi sĩ đa tình, đa cảm, đa đoan nên tiếng thơ của chị lại càng nồng nàn, khao khát, đắm say khi viết về tình yêu. Ở đó, có đầy đủ các cung bậc, sắc màu. Và cho dù ở trạng thái nào vẫn thể hiện rõ thiên tính nữ của một hồn thơ hiện đại, có bản sắc riêng. Tình yêu trong thơ chị có tiếng nấc nghẹn, buồn tủi vì dường như tất cả đều thua thiệt, tất cả đều hoang hoải, bất thành. Để rồi chính “em” phải tự vá víu, tự an ủi, vỗ về đứng dậy; nhiều lúc tỏ ra mạnh mẽ, bình thản nhưng có lẽ trong sâu thẳm tâm can vẫn yếu mềm và tổn thương sâu sắc: triệu triệu lần khao khát đến bên anh/ như nàng kiều trong đêm khuya vượt rào thưa tìm trọng/ giữa mùa trăng, em muốn cúc áo này nới lỏng/ ngọn gió lùa vào thơm mát thịt da// cọc tìm trâu có nghĩa lý gì a (!?)/ bao nghiệt ngã cứ nặng oằn lên tóc/ tình yêu em tựa mầm xanh mời mọc/ phận đàn bà không qua cọng cỏ khô// cỏ yếu mềm phơi ngọc gió mưa/ dẫu giẫm đạp ngả nghiêng, dù bao phen tàn lụi/ nhưng sức sống mỗi phút giây bừng trỗi/ những vui buồn ngày tháng cứ hồng hoang// triệu triệu lần em muốn đến bên anh (em muốn…).
Nhà thơ Minh Đan hướng sự chú ý của mình vào việc khai thác tâm trạng cá nhân với cái nhìn tinh tế, nhạy bén bằng cảm xúc riêng tư, đơn lẻ nhưng chính những cảm xúc riêng tư ấy lại mở ra và vươn tới những vấn đề rộng lớn trong đời sống. Vì thế, trong thơ chị người đọc nhận ra rất nhiều những câu hỏi, những câu hỏi đó chính là sự thắc mắc, hoài nghi.
Thơ Minh Đan có những bài chính là sự tự thú, tự thoại để nhìn nhận lại chính bản thân một cách nghiêm túc để nhận ra những khôn - dại, được - mất và tự mình có cách ứng phó, hành xử…: ta dại dột đi tìm ta ngốc nghếch/ đường thênh thang, lòng phố mưa gầy/ nghe cỏ mềm gồng nỗi nhớ trĩu vai/ chờ tiếng dế vọng lời mê đắm// ta múa võ giữa chợ đời nhân thế/ chữ cong cong thách thức lòng ngay/ bao hiểm nguy rình rập đêm ngày/ nào ai biết đang cận kề sinh tử// ta vung kiếm rõ những điều trách cứ/ lạc quan nhìn luật nhân quả rẽ chia (ngẫm).
Tình yêu trong thơ chị có lúc mãnh liệt, nồng nàn, sẵn sàng vượt qua mọi định kiến, rào cản để khẳng định chính mình, thỏa nỗi khát khao hạnh phúc cho mình dẫu anh có dối lừa, phụ bạc… thì em vẫn có nỗi kiêu hãnh của riêng em: em biết đời anh không thiếu những hoa khôi hoa hậu/ những chân dài thắt đáy lưng ong/ ngực – eo – mông gợi cảm ba vòng/ cong – uốn – lượn thành trì siêu vẹo/ những chớp mắt cháy một vùng biên ải/ những nụ cười sấm sét cũng nở hoa/ hờn ghen được không?// có gã khờ yêu em như thơ/ lưng em ngắn, anh bảo: siêng năng làm bếp/ chân em thấp, anh nhủ: xinh như trái bắp/tay em tròn, anh hồn nhiên: cà pháo dậy thì/ em hạnh phúc không?// lò gạch cũ cổ tích hiện lên/ bát cháo hành mang tên thị nở/ kiêu hãnh mặc đời ghẹo trêu xấu hổ/ hôm nay em ngước lên cao (thị nở vùng lên).
Người đọc tinh ý sẽ nhận ra trong thơ Minh Đan yếu tố thời gian và không gian phố thị được chị chú ý khai thác nhiều. Có lẽ vì thế mà tên các tập thơ đều nhấn mạnh về thời gian: Phút 89, Phút bù giờ và trong hầu khắp các sáng tác đều đề cập nhiều đến không gian và đời sống của nơi phồn hoa. Nơi đó, bên cạnh những điều văn minh, hiện đại còn tiềm ẩn bao cạm bẫy, dối lừa.
Đọc thơ Minh Đan, dư vị đọng lại trong lòng bạn đọc là những bài thơ giàu ý tưởng, tứ thơ lạ, với những liên tưởng độc đáo, bất ngờ. Ngôn ngữ thơ tự nhiên nhưng giàu cảm xúc, hình ảnh thơ mang tính biểu trưng, giàu sức ám gợi đã thể hiện rõ nét bản sắc cá nhân, khám phá tận cùng mọi ngõ ngách trong chiều sâu tâm hồn. Ở đó, bóng dáng của một người đàn bà đa cảm, đa đoan đang rảo bước, đang suy tư, đang tất bật, đang ngẫm ngợi về những điều được - mất, có - không, hạnh phúc - khổ đau… trong cuộc đời này.
NGUYỄN VĂN HÒA