Chị bảo rằng:“Trong thời đại này, với một số người, làm mẹ đơn thân có thể là trào lưu, là một sự lựa chọn hạnh phúc độc lập mà không cần đến người phối ngẫu. Nhưng với tôi, bản thân phụ nữ sinh ra đã chịu nhiều thiệt thòi, vậy nên tôi luôn đồng cảm với những nỗi đau mà chị em hứng chịu, đôi khi rất nghiệt ngã…” và cái nhìn của nhà thơ về vấn đề trên, hạnh phúc dường như mong manh lắm, hiện lên từ ngòi bút của chị là bao niềm trăn trở, suy tư, dằn vặt nối tiếp nhau. Với ai đó, có thể chỉ một hoặc hai bài là đủ để giải bày, nhưng Minh Đan lại khác, nhà thơ đã có tới 12 bài thơ dành cho chủ đề ấy.
Hạnh phúc trong độc lập ư? Có thể là với ai đó, nhưng với Minh Đan thì khó mà có được hạnh phúc ấy. Với chị, ít ra là trong thơ, chỉ thấy toàn đớn đau của người đàn bà phải sống trong cô độc:
“em không rõ phải nếm vị chua cay thêm mấy trăm lần
thì người ta mới ngộ
hạnh phúc đi hoang bức tường niềm tin sụp đổ”
(TRƯỚC BIỂN)
“anh say nắng phương nào?
nỗi đau cào cấu
đêm
nhọc nhằn khâu vá vết thương” …
“những cơn say chẳng thể nào giấu được
cơn tỉnh bàng hoàng dốc ngược vết đau”
(NGƯỜI CŨ)
Người ta sinh ra để sóng đôi, để “đôi ta hòa làm một”, nên chẳng biết vì duyên cớ gì mà người đi kẻ ở, vẫn cứ mãi là chuyện nhớ, mong…
“về đi anh
đánh thức que diêm đỏ lửa trong em
đỏng đảnh nằm ngoài mép cửa”
(VỀ ĐI ANH)
Trải qua bao cung bậc của tình yêu, có gì đau đớn hơn chợt nhận diện sự thật phũ phàng:
“trò chơi như bữa tiệc ma quỷ lộng hành
đỉnh điểm của hoang mang và hủy diệt
người đàn bà nhảy xuống dòng sông đục ngầu thua thiệt
thảng thốt: ta chỉ là trò chơi của đàn ông (?)”
(TRÒ CHƠI)
Tuy mang một đề tựa khác, song dòng thơ vẫn nguyên vẹn nỗi đau:
“không là chồng, là vợ, mà ghen ngon
giọt giọt thương vay
em thành kẻ lạ
anh mê mải điều gì?
con đường nhiều ngả
vòng tay đầy ắp nhân tình”
(TÌNH NHÂN)
Hạnh phúc đâu chẳng thấy, toàn nỗi ê chề khi một mình đối diện với cô đơn:
“bao nhiêu yêu thương khâu kín một hình hài (?)
em rửa cơn buồn
bằng thứ mùi đàn bà phá giá
sợi tóc buộc câu yêu
lá vàng môi buông thả
nước mắt ứa nhựa thân xanh”
(MẸ ĐƠN THÂN)
Và khi nhìn lại, thực tại vẫn chỉ là thực tại của phũ phàng:
“em không thể tô vẽ mãi bình yên
khi lòng quặn sóng
nụ cười anh sang sảng là người chiến thắng
tay nắm chặt tay mà mạch máu đứt lâu rồi…
là tình nhân, em chẳng thể nữa rồi
đứa trẻ cần cha như nhà cần nóc
đã vượt qua bao điều khó nhọc
cớ gì còn hoài nghi?”
(TỘI ĐỒ)
“em ra lệnh cho cánh cửa đóng vào
cánh cửa quen mùi anh mở ra”
(BAO GIỜ ANH ĐẾN?)
Những trang thơ về chủ đề “Mẹ đơn thân” toàn là những câu thơ buồn về tình yêu đôi lứa. Minh Đan ngắm nhìn cuộc sống, qua lăng kính của người phụ nữ đã, đang có một mái ấm gia đình hạnh phúc, thế nên sự “đơm hoa nở nhụy” mà nếu chỉ duy nhất người đàn bà sở hữu sự kết tinh ấy, thì chỉ là bất hạnh. Điều đó có thể đúng với chị, bởi chị chưa hề là “người trong cuộc”, nhưng với những-bà-mẹ-đơn-thân, thì chắc gì đã đúng. Một sinh linh ra đời, gắn liền người vừa làm mẹ, vừa làm cha – đã tạo ra một thứ “hạnh phúc” mà những người bình thường khác không hề có.
Nhà thơ ghi rằng: “Ám ảnh tôi là cơn đói ùa về trên đôi môi khô khát của em, đôi mắt dại đi trong đêm mà thân tôi bất lực, thơ tôi bất lực… biết thế, nhưng sự sống vẫn phải tiếp diễn, gắn liền với mỗi số phận, đôi khi không có lựa chọn. Thơ đã cuốn tôi đi, trôi theo những đứa trẻ đường phố trên các ngã tư, ngã năm,… đầy khắc khoải” – để bắt đầu cho những bài thơ dành “tặng trẻ em đường phố”.
“cầm tập thơ thơm tay nghĩ về đồng xu lẻ
ước mỗi âm tiết mua được ổ bánh mì cầm hơi
dỗ dành em phút đói lòng, khát nước
ước mỗi bản thảo gói được nắm xôi niềm tin của ngày mai
thả vào ngón tay em hạt đơm nóng hổi”
(MƯA)
Trong cơn mưa nào, nhà thơ đã nhìn thấy… những thân phận nhỏ bé lang thang, với cái đói chực chờ. Và trên con phố nhỏ, chị đã đắng cay cho những đứa bé kiếm chút tiền từ trò múa lửa giữa đêm khuya:
“trao cho người nụ cười hồn nhiên
nhận về mình tiếng vỗ tay vô cảm
đói, rét quanh co phố phường lẩn quẩn
run rẩy làm trò hiệp sĩ mua vui
đứa con đường phố lạ, quen hơi người
dáng vóc thấp cao oằn mình gánh lửa”
(LỬA ĐỎ XOAY VÒNG)
Nhà thơ cứ đi, cứ thấy và đặt ra bao nhiêu câu hỏi về những đứa trẻ lang thang trên phố ấy, nhưng rồi bất lực, kể cả câu nguyện cầu nghe chừng mộng mị:
“có từ bi nào cho ngày túng quẫn?
nguyện cầu rác thành cơm”
(MẢNH VỠ)
Đứa bé nói với chị rằng: “Hai ngày rồi cháu chưa được ăn”. Và cháu được bữa ăn no.
“còn bao nhiêu lời thật vụt mất đời này?
đứa trẻ hai ngày cồn cào bụng đói
xong bữa cơm no, ngày mai… gió thổi
may rủi đến bao giờ?”
(XUỐNG PHỐ)
Chị bảo rằng “chọn nghiệp bút nghiên, là một lựa chọn chẳng mấy dễ dàng với tôi. Nhưng đó là nghiệp… trời đày. Tôi cháy trên từng trang thơ, bằng trách nhiệm và lương tâm, bằng niềm tin chưa bao giờ ngơi nghỉ là nguyện mong những điều tốt đẹp, hạnh phúc nhất cho dân, cho đất nước”. Bao chuyện đời ngang trái, bất công cứ hàng ngày hiển hiện, với ai đó hóa thành chuyện thường tình, nhưng với nhà thơ lại đau đáu nỗi niềm.
“hỏi trời, không buồn hỏi
đường xa đến ngút ngàn
gọi người, không buồn gọi
gần nhau mà thênh thang”
(PHẬN NGƯỜI TRÊN SÔNG PÔ KÔ)
Tương tự:
“những bộ óc bê tông rổn rảng trận cười
hể hả người mua, gật gù kẻ bán
ai xót thương phận đời xanh bóng?
ném cái nhìn lạnh toát chân không”
(LỜI CẦU CỨU)
“niềm tin mòn được cột sau xe
bánh thời gian cũng treo lủng lẳng
còn nhiều đêm trắng
ai thức cùng tôi viết điếu văn?
tôi lặng im mài chữ bên song
suối đã khô, đồng cỏ xanh đã cháy
biển vắng cá rồi, diều không gió để bay
niềm tin bó trong manh chiếu cột sau xe”
(NIỀM TIN)
“Phút Bù Giờ” – là những trăn trở hóa thành tiếng thở dài của tác giả, được chính Minh Đan xâu thành chuỗi bằng những con chữ thật buồn. Với ai đó là sự bất lực khi phải nghe, phải thấy bao câu chuyện buồn-không-nói-được, nhưng với nhà thơ, chị không lướt qua rồi bỏ trôi vào quên lãng mà lưu giữ lại cho mình, cho người yêu thơ… Để mai sau, bất chợt đâu đó có người còn nhắc nhớ về cuộc đời, về con người, về tình yêu… của những tháng ngày đã qua…
Sài Gòn, tháng Năm, năm 2021
BÙI NGUYỄN TRƯỜNG KIÊN